Liên bang Xô viết Lịch_sử_Nga

Lenin và Stalin

Sự thành lập Liên bang Xô viết

Lịch sử Nga trong giai đoạn từ 1922 tới 1991 chủ yếu là lịch sử Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết, gọi tắt là Liên bang Xô viết. Liên bang dựa trên ý thức hệ này, được các lãnh đạo Đảng Cộng sản Nga thành lập tháng 12 năm 1922[167], chủ yếu gồm các nước giáp với Nga trước Hiệp ước Brest-Litovsk. Ở thời gian đó, quốc gia mới này gồm bốn nước cộng hoà có chủ quyền: Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga, Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa BelarusCộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Ngoại Kavkaz[168]

Hiến pháp, được thông qua năm 1924, tạo lập một hệ thống chính phủ liên bang dựa trên một sự kế tục các Xô viết được thành lập tại các làng, các nhà máy, các thành phố tại các vùng lớn. Kim tự tháp các Xô viết này ở mỗi nước cộng hòa có chủ quyền này lên tới đỉnh tại Hội đồng các Xô viết toàn Liên bang. Nhưng tuy vẻ ngoài rằng Hội đồng có quyền tối cao, cơ cấu này thực tế bị Đảng Cộng sản chi phối, và Đảng Cộng sản lại bị kiểm soát bởi Bộ chính trị từ Moskva, thủ đô Liên bang Xô viết, giống như dưới chế độ các Sa hoàng trước thời Pyotr Đại đế.

Cộng sản thời chiến và Chính sách Kinh tế Mới

Giai đoạn từ khi củng cố Cách mạng Bolshevik năm 1917 tới năm 1921 được gọi là giai đoạn cộng sản thời chiến[169]. Ruộng đất, toàn bộ ngành công nghiệp và doanh nghiệp nhỏ đều bị quốc hữu hoá và nền kinh tế tiền tệ bị hạn chế. Sự đối lập mạnh nhanh chóng phát triển[169]. Nông dân muốn được trả bằng tiền mặt cho các sản phẩm của mình và bực tức vì phải nộp thặng dư mùa màng cho chính phủ như một phần chính sách nội chiến. Đối đầu với sự phản đối của nông dân, Lenin bắt đầu chiến lược rút lui khỏi cộng sản thời chiến được gọi là Chính sách Kinh tế Mới (NEP)[169]. Nông dân được miễn thuế bán buôn và được phép bán lương thực thặng dư ra thị trường tự do. Thương mại phát triển khi bán lẻ tư nhân được hoạt động. Nhà nước tiếp tục nắm ngân hàng, vận tải, công nghiệp nặng và các ngành công cộng.

Dù phái đối lập cánh tả bên trong những người Cộng sản chỉ trích những nông dân giàu có hay kulak hưởng lợi từ Chính sách Kinh tế Mới, chương trình này đã chứng tỏ hiệu quả lớn và nền kinh tế đã được phục hồi[169]. Sau này Chính sách Kinh tế Mới ngày càng bị chỉ trích từ bên trong đảng sau khi lãnh tụ Lenin qua đời đầu năm 1924[169].

Những thay đổi trong xã hội Nga

Trong khi nền kinh tế đang chuyển đổi, đời sống xã hội của nhân dân đã trải qua những thay đổi lớn. Ly hôn không cần trải qua thủ tục toà án[170] và phụ nữ hoàn toàn tự do quyết định việc sinh con, phá thai được hợp pháp hoá ngay từ năm 1920[171]. Như một hiệu ứng phụ, sự giải phóng phụ nữ làm tăng thị trường lao động. Các cô gái được khuyến khích học hành và làm việc trong nhà máy cũng như văn phòng. Các cơ sở giữ trẻ công được lập ra để chăm sóc trẻ em và các nỗ lực đã được tiến hành nằm chuyển trung tâm cuộc sống xã hội của người dân từ trong nhà tới các nhóm giáo dục và giải trí, câu lạc bộ Xô viết.

Chế độ mới loại bỏ chính sách phân biệt đối xử chống các cộng đồng thiểu số thời Sa hoàng. Một đặc điểm khác của chế độ là sự mở rộng các dịch vụ y tế. Các chiến dịch được tiến hành chống sốt phát ban, dịch tảsốt rét; số lượng bác sĩ tăng lên nhanh chóng khi các cơ sở đào tạo được lập ra; và tỷ lệ tử vong trẻ em giảm nhanh trong khi tuổi thọ tăng nhanh[172].

Chính phủ cũng khuyến khích chủ nghĩa vô thầnchủ nghĩa duy vật, là các cơ sở của học thuyết Mác. Chính phủ tước bỏ quyền lực của Giáo hội Chính Thống giáo Nga. Nhiều lãnh đạo tôn giáo bị trục xuất tới các trại tập trung[173]. Các thành viên của đảng bị cấm tham gia các hoạt động tôn giáo và hệ thống giáo dục được tách biệt khỏi Giáo hội[173]. Việc giảng dạy tôn giáo bị cấm ngoại trừ trong gia đình và giáo dục vô thần được tăng cường trong các trường học.

Công nghiệp hoá và Tập thể hoá

Xem thêm thông tin: Tập thể hoá tại Liên Xô

Những năm từ 1929 tới 1939 là một thập kỷ đầy náo động trong lịch sử Nga - một giai đoạn công nghiệp hoá trên diện rộng và các cuộc đấu tranh nội bộ khi Iosif Vissarionovich Stalin thiết lập quyền cai trị gần như tuyệt đối với xã hội Nga. Sau khi Lenin qua đời, Stalin chiến đấu giành quyền kiểm soát Liên bang Xô viết với các phe phái đối thủ bên trong Bộ chính trị, đặc biệt là phe của Leon Davidovich Trotsky. Tới năm 1928, khi những người theo chủ nghĩa Trotsky hoặc đã bị lưu đày hoặc đã mất quyền lực, Stalin đã sẵn sàng đưa ra một chương trình cực đoan đưa quá trình công nghiệp hoá vào thực hiện[174].

Năm 1928 Stalin đề xuất Kế hoạch năm năm lần thứ nhất[169]. Bãi bỏ NEP, đây là kế hoạch đầu tiên trong những kế hoạch có mục tiêu thâu tóm các nguồn tài nguyên tư bản thông qua việc xây dựng nền công nghiệp nặng, tập thể hoá nông nghiệp, và hạn chế chế tạo hàng tiêu dùng[169]. Lần đầu tiên trong lịch sử một chính phủ kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế.

Như một phần của kế hoạch, chính phủ nắm quyền kiểm soát nông nghiệp thông qua các nông trang nhà nước và tập thể (các kolkhoz)[175]. Theo một nghị định tháng 2 năm 1930, khoảng một triệu nông dân cá thể (kulak) bị buộc rời bỏ ruộng đất. Nhiều nông dân phản đối mãnh liệt sự tổ chức này của nhà nước, thường giết bỏ toàn bộ gia súc khi phải đối mặt với nguy cơ mất đất đai. Một số khi họ nổi loạn, và rất nhiều nông dân bị chính quyền coi là "kulak" bị hành quyết[176]. Thời tiết xấu cộng thêm sự kém hiệu quả của các nông trang tập thể được lập ra vội vã và sự sung công sản phẩm nông nghiệp hàng loạt đã dẫn tới một nạn đói nghiêm trọng[175], nhiều triệu nông dân chết đói, chủ yếu tại Ukraina và nhiều vùng tây nam nước Nga[175]. Các điều kiện khó khăn ở vùng nông thôn đã khiến hàng triệu nông dân tuyệt vọng kéo vào các thành phố đang phát triển nhanh chóng, cung cấp nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá và làm tăng nhanh số dân thành thị Nga chỉ trong vài năm.

Trừ nông nghiệp, các kế hoạch khác đều đạt những thành công lớn. Nước Nga, ở nhiều khía cạnh là nước nghèo nhất châu Âu thời Cách mạng Bolshevik, khi ấy đã được công nghiệp hoá ở mức độ chưa từng có, lấp đầy khoảng cách với công nghiệp Đức trong thế kỷ 19 và Nhật Bản đầu thế kỷ 20.

Trong khi các Kế hoạch năm năm được đưa ra, Stalin tiếp tục củng cố quyền lực cá nhân của mình. Bộ dân uỷ nội vụ (NKVD) khiến hàng chục ngàn công dân Xô viết phải đối mặt với nguy cơ bị bắt giữ, trục xuất, hay hành quyết. Trong số sáu thành viên cũ của Bộ chính trị năm 1920 sau Lenin, tất cả đều bị Stalin thanh trừng. Những người Bolshevik cũ từng là các đồng chí trung thành của Lenin, các sĩ quan cao cấp trong Hồng quân và lãnh đạo các ngành công nghiệp đều bị xử lý trong cuộc Đại thanh trừng[177]. Các cuộc thanh trừng tại các nước cộng hoà Xô viết cũng giúp tập trung hoá quyền lực tại Liên Xô.

Các cuộc trấn áp của lãnh tụ Stalin dẫn tới sự thành lập một hệ thống trục xuất nội địa to lớn, ở những tầm vóc lớn hơn nhiều so với các hệ thống từng được các Sa hoàng lập ra[178]. Các hình phạt hà khắc được đưa ra và nhiều công dân bị hành quyết vì các tội phá hoại và gián điệp tưởng tượng. Nhân công từ những người bị kết án tại các trại lao động của hệ thống Gulag trở thành một thành phần quan trọng của cuộc công nghiệp hoá, đặc biệt tại Siberi[179][180]. Ước tính 18 triệu người đã phải trải qua hệ thống Gulag, và có lẽ khoảng 15 triệu người nữa từng phải trải qua một trong các hình thức lao động cưỡng bức[181][182].

Liên bang Xô viết trên bình diện quốc tế

Liên bang Xô viết coi sự thăng tiến lên nắm quyền năm 1933 của chính phủ chống cộng cuồng nhiệt do Hitler lãnh đạo tại nước Đức là lời cảnh báo nghiêm trọng, đặc biệt bởi Hitler tuyên bố Drang nach Osten là một trong những mục tiêu chính trong chiến lược Lebensraum của Đức Quốc xã[183]. Liên bang Xô viết đã ủng hộ những người Cộng hòa ở Tây Ban Nha đang chiến đấu chống lại quân đội phát xít Đức và Italia trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha[184][185]. Trong các năm 1938 - 1939, ngay trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên bang Xô viết đã giành thắng lợi trước quân phiệt Nhật trong Các cuộc chiến tranh Biên giới Xô-Nhật ở vùng Viễn Đông Nga, dẫn tới Hiệp ước Trung lập Xô-Nhật và hoà bình ở biên giới hai nước kéo dài tới tận tháng 8 năm 1945[186][187].

Vào năm 1938, phát xít Đức sáp nhập Áo và cùng với các cường quốc châu Âu khác, ký Thoả thuận Munich theo đó Đức, Hungary và Ba Lan phân chia lãnh thổ Séc với nhau. Đức dự định tiến tiếp về phía đông vì sự thiếu kiên quyết của các cường quốc phương Tây trong việc ngăn cản họ đã trở nên rõ ràng. Dù Liên Xô mạnh mẽ phản đối thoả thuận Munich và nhiều lần tái khẳng định sự sẵn sàng hỗ trợ quân sự theo cam kết trước đó với Tiệp Khắc, việc phương Tây phản bội Tiệp Khắc càng khiến Liên Xô thêm lo ngại về một cuộc tấn công sắp tới của Đức, khiến nước này phải nhanh chóng hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng và tiến hành các hoạt động ngoại giao của riêng mình. Năm 1939 Liên Xô ký hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau với phát xít Đức chia các vùng ảnh hưởng giữa hai nước tại Đông Âu[188]. Sau thoả thuận này, Liên Xô bình thường hoá quan hệ với phát xít Đức và nối lại thương mại giữa hai nước[189].

Chiến tranh thế giới thứ hai

Tù binh chiến tranh Xô viết chết đói trong một trại tập trung phát xít. Liên bang Xô viết mất khoảng 27 triệu người trong cuộc chiến, chiếm một nửa thương vong của Chiến tranh thế giới thứ hai[190].

Ngày 17 tháng 9 năm 1939, mười bảy ngày sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và nước Đức chiến thắng tiến sâu vào lãnh thổ Ba Lan, Hồng quân chiếm đóng các vùng phía đông Ba Lan bắt đầu bảo hộ người Ukraina và người Belarus như mục tiêu hàng đầu của chiến dịch và đưa ra khẩu hiệu "chiếm để tồn tại" như lời biện minh cho hành động của mình[191][192]. Nhờ vậy, các biên giới phía tây các nước cộng hoà Xô viết Belarus và Ukraina được dời về phía tây và biên giới phía tây mới của Liên Xô được vẽ gần với đường Curzon cũ. Trong lúc đó các cuộc đàm phán với Phần Lan về việc trao đổi đất do Liên Xô đề xuất sẽ khiến biên giới Liên xô-Phần Lan rời xa thêm khỏi Leningrad đổ vỡ; và vào tháng 12 năm 1939 Liên bang Xô viết bắt đầu chiến dịch tấn công Phần Lan, được gọi là cuộc Chiến tranh mùa Đông (1939–40). Cuộc chiến khiến Hồng quân thiệt hại nặng nề nhưng cũng buộc Phần Lan phải ký Hiệp ước Hoà bình Moskva và nhường eo KareliaLadoga Karelia.[193][194]. Mùa hè năm 1940 Liên Xô đưa ra một tối hậu thư tới Romania buộc nước này phải nhường các lãnh thổ BessarabiaBắc Bukovina. Cùng lúc đó, Liên Xô cũng chiếm ba nước Baltic độc lập cũ (Estonia, LatviaLitva)[195][196][197]

Hoà bình với Đức không dễ dàng, bởi cả hai bên đều đang chuẩn bị cho cuộc xung đột quân sự[198][199] và nhanh chóng chấm dứt khi các lực lượng phe Trục do phát xít Đức dẫn đầu tràn qua biên giới Liên Xô ngày 22 tháng 6 năm 1941. Đó là ngày cuộc "Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại" của nhân dân Liên Xô bùng nổ, nhưng rồi Hồng quân Liên Xô thảm bại trong chiến dịch Barbarossa.[200] Tới mùa thu quân đội Đức đã chiếm Ukraina, bao vây Leningrad, và đe doạ chiếm thủ đô Moskva[201][202][203]. Dù sự thực rằng trong tháng 12 năm 1941 Hồng quân đã đẩy lùi phát xít Đức khỏi thủ đô Moskva trong một cuộc phản công thắng lợi, quân Đức vẫn giữ được thế chủ động chiến lược một năm nữa và duy trì được thế tấn công sâu ở hướng đông nam, tiến tới sông VolgaKavkaz. Tuy nhiên, hai thất bại lớn của quân Đức tại StalingradKursk mang tính quyết định và đảo ngược tiến trình của toàn bộ chiến tranh thế giới bởi phát xít Đức không bao giờ giành lại được sức mạnh để duy trì các chiến dịch tấn công và Liên bang Xô viết tái chiếm quyền chủ động chiến lược trong phần còn lại của cuộc chiến.[204]. Tới cuối năm 1943, Hồng quân đã đột phá qua vòng vây của phát xít Đức tại Leningrad và giải phóng hầu hết Ukraina, đa phần miền tây nước Nga và tiến vào Belarus[205]. Tới cuối năm 1944, mặt trận đã di chuyển vượt các biên giới năm 1939 của Liên Xô vào Đông Âu. Hồng quân Liên Xô tiến vào miền đông nước Đức, đánh thủ đô Berlin từ ngày 16 tháng 4 và chiếm được thành này vào ngày 2 tháng 5 năm 1945.[206][207] Trùm phát xít Adolf Hitler tự tử vào ngày 30 tháng 4 năm 1945.[207] Cuộc chiến với phát xít Đức vì thế đã chấm dứt với thắng lợi thuộc về Liên Xô.

Như thoả thuận tại Hội nghị Yalta, ba tháng sau Ngày chiến thắng tại châu Âu Liên bang Xô viết tung ra cuộc tấn công vào Mãn Châu, đánh tan tác quân phiệt trong trận đánh tại Mãn Châu - đây là trận chiến cuối cùng của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai[208].

Dù Liên bang Xô viết giành thắng lợi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc chiến đã khiến khoảng 26–27 triệu người Xô viết thiệt mạng (các ước tính khác nhau)[209] và đã tàn phá nền kinh tế nước này. Khoảng 1.710 thị trấn và 70 nghìn khu nhà cửa bị phá huỷ[210]. Các vùng đất bị chiếm đóng bị quân đội Đức tàn phá và bắt người dân làm lao động nô lệ tại Đức[211]. 13 triệu công dân Liên bang Xô viết trở thành nạn nhân của chính sách trấn áp của người Đức và đồng minh của nước này tại các vùng đất chiếm đóng, bị thiệt mạng trong các cuộc thảm sát hàng loạt, nạn đói, thiếu thốn thuốc men và lao động cưỡng bức[212][213][214][215]. Chính sách diệt chủng chống người Do Thái trong chương trình Einsatzgruppen của Đức khiến hầu như toàn bộ người Do Thái trên toàn vùng lãnh thổ bị Đức và đồng minh của họ tạm chiếm biến mất[216][217][218][219]. Trong khi bị chiếm đóng, thành phố Leningrad của Nga, nay là Sankt Peterburg đã mất khoảng một phần tư dân số[215]. Nước cộng hoà Xô viết Belarus mất từ một phần tư tới một phần ba dân số. 3,6 triệu tù binh chiến tranh Xô viết (trong số 5,5 triệu) chết tại các trại tập trung Đức[220][221][222].

Chiến tranh Lạnh

Bài chi tiết: Chiến tranh Lạnh

Sự hợp tác giữa các cường quốc Đồng Minh thắng trận dường như sẽ là một cơ sở cho sự tái thiết và an ninh thời hậu chiến. Tuy nhiên, sự xung đột quyền lợi giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, được gọi là Chiến tranh Lạnh, đã nổi lên thống trị trường quốc tế thời hậu chiến.

Chủ tịch Leonid Ilyich Brezhnev nói chuyện với Richard Nixon trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, đỉnh điểm căng thẳng.

Cuộc Chiến tranh Lạnh xuất hiện như sự xung đột giữa Stalin và tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman về tương lai Đông Âu trong Hội nghị Potsdam mùa hè năm 1945[223]. Nước Nga đã phải chịu ba cuộc chiến tranh tàn phá từ phía Tây trong vòng 150 năm trước đó với các cuộc Chiến tranh Napoléon, Chiến tranh thế giới thứ nhất, và Chiến tranh thế giới thứ hai, và mục tiêu của Stalin là thiết lập một vùng đệm giữa Đức và Liên Xô[224]. Với Đông Âu nằm dưới sự chiếm đóng của Hồng quân, Stalin cũng cố gắng lợi dụng thời gian để bí mật phát triển dự án bom nguyên tử[225][226].

Tháng 4 năm 1949 Hoa Kỳ thành lập Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), một hiệp ước phòng thủ chung trong đó hầu hết quốc gia phương Tây cam kết coi một cuộc tấn công quân sự chống lại một nước thành viên như một cuộc tấn công vào toàn bộ khối. Liên Xô cũng thành lập một tổ chức đối đầu phía Đông của NATO năm 1955, Khối hiệp ước Warszawa[227][228][229]. Sự phân chia châu Âu thành phương Tây và khối Xô viết sau này đã phát triển lên bình diện quốc tế, đặc biệt sau năm 1949, khi thế độc quyền hạt nhân của Hoa Kỳ chấm dứt với việc Liên xô thử nghiệm bom hạt nhânphe cộng sản giành chính quyền tại Trung Quốc.

Các mục tiêu trước mắt của chính sách đối ngoại Liên Xô là duy trì và thúc đẩy an ninh quốc gia và duy trì sự ổn định ở Đông Âu. Liên Xô duy trì sự quản lý của mình với Khối hiệp ước Warszawa qua việc dập tắt cuộc nổi dậy tại Hungary năm 1956[230], trấn áp phong trào Mùa xuân Praha tại Tiệp Khắc năm 1968, và ủng hộ việc dập tắt phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan đầu thập niên 1980. Liên bang Xô viết đối đầu Hoa Kỳ trong một số cuộc xung đột uỷ nhiệm trên khắp thế giới, gồm cả Chiến tranh Triều TiênChiến tranh Việt Nam.

Khi Liên Xô tiếp tục duy trì sự kiểm soát chặt chẽ với toàn bộ vùng ảnh hưởng của mình tại Đông Âu, cuộc Chiến tranh Lạnh đã dẫn tới Bớt căng thẳng (Détente) và một hình mẫu quan hệ quốc tế phức tạp trong thập niên 1970 trong đó thế giới không còn được phân chia thành hai khối đối lập rõ rệt. Các nước phi cường quốc có nhiều cơ hội hơn để đòi độc lập, và hai siêu cường một phần cũng có thể giữ gìn quyền lợi chung qua việc tìm cách hạn chế và ngăn ngừa phát triển các loại vũ khí hạt nhân với các hiệp ước như SALT I, SALT II, và Hiệp ước chống Tên lửa Đạn đạo.

Quan hệ Xô-Mỹ đã xấu đi sau khi cuộc chiến tranh Afghanistan kéo dài 9 năm diễn ra năm 1979 và khi Ronald Reagan, một nhân vật chống cộng cuồng nhiệt, lên làm Tổng thống Hoa Kỳ năm 1980 nhưng đã có cải thiện khi khối Xô viết bắt đầu tan rã hồi cuối thập niên 1980. Với sự sụp đổ của Liên bang Xô viết năm 1991, Nga đánh mất vị thế siêu cường nước này từng có được sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Những năm thời Khrushchev và Brezhnev

Trong cuộc tranh giành quyền lực xuất hiện sau khi Stalin qua đời năm 1953, những đồng minh thân cận nhất của ông đã bị gạt bỏ. Nikita Sergeyevich Khrushchev củng cố vị trí của mình trong bài phát biểu trường Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản năm 1956, liệt kê những sai lầm của nhà lãnh đạo Stalin[231].

Năm 1964, Khrushchev bị Uỷ ban Trung ương Đảng kết tội với nhiều tội lỗi gồm cả việc khiến Liên Xô thất bại như cuộc Khủng hoảng Tên lửa Cuba[231]. Sau một giai đoạn lãnh đạo tập thể ngắn, một quan chức kì cựu, Leonid Ilyich Brezhnev, lên thay Khrushchev[232]. Brezhnev tiếp tục chính sách đề cao công nghiệp nặng của Stalin[233] và cũng tìm cách giảm căng thẳng trong quan hệ với Hoa Kỳ[233]. Từ thập niên 1960 Liên bang Xô viết trở thành nhà sản xuất và xuất khẩu quan trọng về dầu mỏkhí tự nhiên[234].

Những năm dưới thời Khruschev và Brezhnev là giai đoạn khoa học và công nghiệp Liên Xô đạt tới đỉnh cao. Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của thế giới được xây dựng năm 1954 tại Obninsk. Tuyến đường sắt Baikal Amur được xây dựng.

Chương trình vũ trụ Liên Xô, do Sergey Pavlovich Korolev thiết lập, đặc biệt thành công. Ngày 4 tháng 10 năm 1957 Liên bang Xô viết phóng vệ tinh vũ trụ Sputnik đầu tiên[235]. Ngày 12 tháng 4 năm 1961 Yuri Alekseyevich Gagarin trở thành người đầu tiên đi vào vũ trụ trên con tàu vũ trụ Liên Xô Vostok 1[236]. Các thành tựu khác của chương trình vũ trụ Nga gồm: bức ảnh đầu tiên chụp phía bề mặt không nhìn thấy của Mặt Trăng; thám hiểm Sao Kim; đi ra ngoài khoảng không vũ trụ lần đầu tiên với Aleksey Arkhipovich Leonov; người phụ nữ đầu tiên bay vào vũ trụ Valentina Vladimirovna Tereshkova. Gần đây hơn, Liên Xô đã chế tạo trạm vũ trụ đầu tiên của thế giới, Salyut tới năm 1986 đã được thay thế bởi Mir, trạm vụ trụ có người ở liên tục và dài hạn đầu tiên, hoạt động từ năm 1986 tới năm 2001.

Liên bang Xô viết tan rã

Hai sự phát triển đặc trưng trong thập kỷ tiếp theo: sự sụp đổ ngày càng rõ ràng của kinh tế và cơ cấu chính trị Liên Xô, và những nỗ lực cải cách chắp vá để đảo ngược quá trình này. Sau thời gian cầm quyền ngắn ngủi của cựu Giám đốc KGB Yuri Vladimirovich AndropovKonstantin Ustinovich Chernenko, những nhân vật chuyển tiếp với tư tưởng thân Brezhnev, Mikhail Sergeyevich Gorbachev thông báo chương trình cải tổ trong một nỗ lực hiện đại hoá chủ nghĩa cộng sản Xô viết. Tuy nhiên, những cải cách xã hội của Gorbachev đã dẫn tới những hậu quả không lường trước. Vì chính sách glasnost của ông ủng hộ mở rộng quyền tiếp cận thông tin của công chúng sau nhiều thập kỷ kiểm soát của chính quyền, các vấn đề xã hội đã được quan tâm đông đảo, làm tổn hại tới quyền lực của đảng Cộng sản. Trong những cuộc cách mạng năm 1989 Liên bang Xô viết đã mất các nước vệ tinh của mình tại Đông Âu. Glasnost cho phép các nhóm sắc tộc và những người theo chủ nghĩa dân tộc có cơ hội trỗi dậy[237]. Nhiều nước cộng hoà có chủ quyền, đặc biệt là các nước cộng hoà vùng Baltic, Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết GruziaCộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Moldavia, tìm cách có được quyền tự trị lớn hơn, điều Moskva không mong muốn. Những nỗ lực cải cách kinh tế của Gorbachev vẫn chưa đầy đủ, và chính phủ Xô viết vẫn duy trì kiểm soát với các thành phần cơ bản của nền kinh tế cộng sản. Gặp bất lợi từ việc giá dầu mỏ và khí gas giảm cùng cuộc chiến tại Afghanistan, nền công nghiệp đã lạc hậu, tình trạng tham nhũng tràn lan, nền kinh tế kế hoạch Xô viết đã cho thấy sự kém hiệu quả, và tới năm 1990 chính phủ Xô viết đã mất quyền kiểm soát với các điều kiện kinh tế. Vì việc kiểm soát giá, đã xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hoá, lên tới đỉnh điểm vào cuối năm 1991, khi mọi người phải xếp hàng dài và phải may mắn mới mua được các đồ dùng thiết yếu. Sự kiểm soát với các nước cộng hoà cũng giảm bớt, và các nước này bắt đầu củng cố chủ quyền trước Moskva.

Căng thẳng giữa Liên bang Xô viết và các cơ quan chính quyền Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nga đã trở thành cuộc chiến tranh giành quyền lực cá nhân giữa Gorbachev và Boris Nikolayevich Yeltsin[238]. Bị Gorbachev loại khỏi cơ cấu chính trị Liên xô năm 1987, Yeltsin, một quan chức cao cấp kiểu cũ của đảng không có hậu thuẫn hay các mối quan hệ mạnh, cần tìm kiếm một cơ sở khác để đối đầu với Gorbachev. Khi vận may đảo chiều bất ngờ, ông thắng cử trở thành chủ tịch của Xô viết Tối cao mới của Cộng hoà Liên bang Nga tháng 5 năm 1990[239]. Trong cuộc bầu cử Tổng thống Nga lần đầu tiên năm 1991 Yeltsin trở thành tổng thống Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nga.

Cuối cùng Gorbachev tìm cách tái cơ cấu Liên bang Xô viết trở thành một nhà nước ít tập trung hơn. Tuy nhiên, ngày 19 tháng 8 năm 1991, một cuộc đảo chính chống Gorbachev, do các quan chức cao cấp Xô viết tiến hành diễn ra. Cuộc đảo chính thất bại sau ba ngày vì sự phản đối rộng rãi của dân chúng, nhưng sự tan rã của Liên bang Xô viết đã trở nên rõ ràng. Chính phủ Nga chiếm hầu hết định chế chính phủ Liên bang Xô viết trên lãnh thổ của mình. Vì vị thế thống trị của người Nga trong Liên bang Xô viết, ít người nghĩ tới bất kỳ sự khác biệt nào giữa Nga và Liên bang Xô viết trước cuối thập niên 1980. Tại Liên bang Xô viết, chỉ Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nga là không có các cơ sở nhà nước thậm chí là nhỏ nhất mà các nước cộng hoà khác sở hữu, như chi nhánh đảng, các hội đồng công đoàn, Viện hàn lâm khoa học, và các thứ tương tự[240]. Đảng Cộng sản Liên Xô bị cấm tại Nga trong giai đoạn 1991-1992, và dù không có một lễ rửa tội nào diễn ra, nhiều thành viên của nó đã trở thành các quan chức hàng đầu của Nga. Tuy nhiên, bởi chính phủ Xô viết vẫn phải đối các cải cách thị trường, tình thế kinh tế tiếp tục suy sụp. Tới tháng 12 năm 1991, sự thiếu hụt khiến tình trạng phân phối thực phẩm theo tem phiếu xuất hiện tại Moskva và Sankt Peterburg lần đầu tiên kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nga nhận viện trợ lương thực nhân đạo từ nước ngoài. Sau Hiệp ước Belavezha, Đại hội Đại biểu Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nga đã rút nước Nga khỏi Liên bang Xô viết ngày 12 tháng 12. Liên bang Xô viết chính thức chấm dứt ngày 25 tháng 12 năm 1991[241]Liên bang Nga (trước kia là Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga[242]) giành chủ quyền ngày 26 tháng 12[241]. Chính phủ Nga bãi bỏ kiểm soát giá cả tháng 1 năm 1992. Giá cả tăng mạnh, nhưng tình trạng khan hiếm chấm dứt.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_Nga http://www.allempires.com/article/index.php?q=The_... http://www.anneapplebaum.com/communism/2000/06_15_... http://www.bartleby.com/65/e-/E-Pozharsk.html http://www.bartleby.com/65/iv/Ivan3.html http://www.bookrags.com/biography/emelyan-ivanovic... http://www.britannica.com/eb/article-3598 http://www.britannica.com/eb/article-9057004/Oleg http://www.britannica.com/eb/article-9057487/Ortho... http://www.britannica.com/eb/article-9064445/Rurik http://www.britannica.com/eb/article-9073517